Một số biến chứng tại nạn và phiền nạn của gây mê
1. Tai biến về tim mạch :
Bên cạnh một số tai biến ít nhiều gây khó chịu như: rối loạn nhịp tim, một vài dạng ngoại tâm thu, nhịp nhanh xoang hoặc nhịp nhanh thất, cần phải chú ý đến một số loại tai biến làm ngừng tim đột ngột cụ thể là:
+ Ngừng tim nguyên phát ngay khi khởi mê sau vài nhịp thở: mạch tăng rất nhanh, sau đó ngừng đột ngột, đồng tử giãn và chết tức khắc mà các phương pháp điều trị hầu như không có kết quả.
+ Ngừng tim thứ phát: là tai biến của việc dùng quá liều thuốc mê, với các biểu hiện trước khi ngừng tim như rối loạn nhịp tim, mạch yếu dần, đồng tử giãn nhanh, giảm và suy thở, thậm chí ngừng thở kéo dài. Trong trường hợp này cần phải ngừng ngay thuốc mê thể khí, cho bệnh nhân thở oxy, tiến hành ngay các kỹ thuật hồi sức về tim mạch như ép tim ngoài lồng ngực hoặc bóp tim trực tiếp trong lồng ngực (đối với các phẫu thuật mở lồng ngực).
Ngất thứ phát hoặc do thiếu oxy cơ tim mà nguyên nhân chủ yếu là do tim hoặc do phổi, hoặc do dùng quá liều thuốc thuộc họ halogone (chlorophorme, chlorure – etyle, cyclopropane).
– Có 4 trạng thái thường gặp khi ngừng tim:
+ Mềm nhẽo.
+ Giảm.
+ Co cứng.
+ Rung cơ tim.
Các cách điều trị ngừng tim là khác nhau. Điều cần lưu ý không chỉ đơn thuần là ngừng tim mà thời gian ngừng tim. Não sẽ không thể phục hồi khi thiếu oxy quá 3 đến 5 phút.
– Khi phát hiện ngừng tim cần phải tiến hành điều trị cấp cứu nhanh và có hiệu quả:
• Ngừng gây mê ngay lập tức.
• Cho bệnh nhân thở oxy 100%.
• Thực hiện hồi sức tim.
+ Bên cạnh tự trụy tim, trụy mạch cũng là hiện tượng thường gặp. Những nguyên nhân chính dẫn đến trụy mạch là:
– Quá liều thuốc mê, dẫn đến tụt huyết áp.
– Thiếu oxy kéo dài.
– Không bù đủ khối lượng máu tuần hoàn trong các phẫu thuật mất nhiều máu.
– Tăng CO2 máu ở giai đoạn cuối.
– Các phản xạ đả kích quá mức do gây mê nông, nhất là trong các phẫu thuật gây đau.
– Truyền nhầm nhóm máu.
Sự trụy mạch là dấu hiệu thường thấy khi:
• Sử dụng hỗn hợp các thuốc ức chế thần kinh.
• Sử dụng các thuốc liệt hạch.
+ Tăng huyết áp liên quan tới:
– Giai đoạn đầu của tăng CO2 máu.
– Truyền quá nhiều máu hoặc dịch.
+ Sự suy tim mẫn cảm tiến triển bởi các thuốc gây mê là ngoại lệ và chỉ thấy trên các bệnh nhân có bệnh tim mạch từ trước.
2. Tai biến về gan:
Tai biến về gan là do ngộ độc gan bởi các thuốc mê nhất là thuốc mê bốc hơi fluothan, thiếu oxy kéo dài, tụt huyết áp động mạch kéo dài. Biểu hiện lâm sàng là vàng da và có thể dẫn đến tử vong. Nói chung gặp ở bênh nhân sử dụng các dẫn xuất halogen.
3. Tai biến về thận:
Các tai biến về thận thường có biểu hiện albumine dương tính tạm thời không liên quan tới các bệnh viêm thận có từ trước, nhưng nặng lên khi bệnh nhân có bệnh viêm thận kết hợp.
4. Tai biến do không chịu thuốc:
Thường gặp khi sử dụng các thuốc gây mê đường tĩnh mạch, với biểu hiện dị ứng ngoài da hoặc dị ứng tổ chức, viêm mạch máu ở dạng xơ cứng tĩnh mạch, động mạch và hoại tử mạch ngoại vi nghiêm trọng trong những trường hợp tiêm nhầm vào động mạch hoặc dưới da.
Các phiền nạn khác như ho, nấc gây khó chịu cho bệnh nhân và thầy thuốc không phải là các biến chứng của gây mê.
5. Tai biến cháy nổ :
Trừ protoxyt azose và chloroforme là không gây cháy nổ. Do vậy khi gây mê bằng thuốc mê bốc hơi đặc biệt là ether cần tránh lửa. Khi đốt điện trong phẫu thuật phổi cần chú ý và cắt thuốc mê.